Please use this identifier to cite or link to this item:
http://115.74.233.203:81/tailieuso/handle/123456789/754
Title: | Khảo sát tình hình kê đơn thuốc điều trị tăng huyết áp ở bệnh nhân suy thận mạn giai đoạn IV tại bệnh viện đa khoa An Sinh thành phố Hồ Chí Minh |
Authors: | Nguyễn, Đức Lộc Phan, Hùng Duy Hậu |
Keywords: | kê đơn thuốc tăng huyết áp suy thận bệnh viện đa khoa bệnh viện đa khoa An Sinh thành phố Hồ Chí Minh |
Issue Date: | 2020 |
Publisher: | Đại học Tây Đô |
Abstract: | Hiện nay, các thuốc điều trị THA ngày càng đa dạng về dược chất, dạng bào chế... cũng như về giá cả. Đây là thuận lợi lớn trong điều trị nhưng cũng là thách thức không nhỏ trong việc lựa chọn thuốc đảm bảo mục tiêu sử dụng thuốc an toàn, hợp lý, hiệu quả, đặc biệt là tăng huyết áp trên bệnh nhân suy thận mạn tính. Do đó, vấn đề lựa chọn thuốc điều trị THA như thế nào để đảm bảo an toàn, hợp lý, hiệu quả luôn là một thách thức đối với ngành y tế nói chung và các bênh viện trong cả nước nói riêng. Với mục tiêu góp phần trong việc đảm bảo sử dụng thuốc điều trị bệnh tăng huyết áp an toàn, hợp lý tại bệnh viện Đa khoa An Sinh chúng tôi tiến hành đề tài: “Khảo sát tình hình kê đơn thuốc điều trị tăng huyết áp ở bệnh nhân suy thận mạn giai đoạn IV tại bệnh viện đa khoa An Sinh thành phố Hồ Chí Minh”. Nghiên cứu được tiến hành bằng phương pháp mô tả cắt ngang, hồi cứu, không can thiệp trên 153 bệnh án của các bệnh nhân được chẩn đoán THA có kèm suy thận mạn giai đoạn IV đã được điều trị tại khoa Nội thận - Lọc máu Bệnh viện đa khoa An Sinh, Thành phố Hồ Chí Minh, từ tháng 01/06/2019 đến 31/05/2020, hồ sơ lưu tại phòng Kế hoạch tổng hợp. Số liệu được lưu trữ và xử lý bằng phần mềm SPSS 22.0. Kết quả nghiên cứu đạt được như sau: Tuổi trung bình của tất cả các bệnh nhân là 52 ± 15,35 năm, tỷ lệ nam nhiều hơn nữ 5%. Phần lớn bệnh nhân trong mẫu khảo sát được điều trị trước đó đã có huyết áp được kiểm soát. Trong nhóm 1 là nhóm chưa được điều trị hay điều trị gián đoạn có 8,50% ở độ 1; 11,11% ở độ 2, và 5,88% ở độ 3 của tăng huyết áp. Thời gian phát hiện tăng huyết áp trung bình của mẫu khảo sát là 3,5 năm; 62,74% số bệnh nhân có từ 2 yếu tố nguy cơ trở lên; các yếu tố nguy cơ thường gặp là rối loạn lipid máu và tuổi cao. Ngoài tổn thương trên thận thì tổn thương cơ quan đích thường gặp là tai biến mạch máu não, bệnh mạch vành. Thuốc ức chế men chuyển và thuốc ức chế calci là hai nhóm thuốc được dùng phổ biến nhất. Nhóm ức chế adrenergic và nhóm lợi tiểu được dùng ít hơn, nhóm chẹn thụ thể của angiotensin được dùng ít nhất; 44,44% bệnh nhân phải thay đổi phác đồ 1 lần và 27,45% là phải thay 2 lần. Cách thức đổi chủ yếu là chuyển từ phác đồ ít thuốc sang phác đồ nhiều thuốc hơn; 75,82% bệnh nhân phải sử dụng phác đồ phối hợp thuốc; trong đó phác đồ phối hợp 2 thuốc và 3 thuốc được sử dụng nhiều nhất. Cặp phối hợp thường gặp trong mẫu khảo sát trong phác đồ phối hợp 2 thuốc là ức chế men chuyển và lợi tiểu, sau đó là ức chế men chuyển và ức chế calci. Với cặp phối hợp 3 nhóm thuốc thì phối hợp thường gặp là ức chế men chuyển, ức chế calci và ức chế adrenergic. Sau 6 tháng dõi bệnh nhân nhóm 1 tăng huyết áp độ 2 và độ 3 chỉ còn 11 bệnh nhân. Huyết áp bình thường/bình thường cao (<140/90 mmHg) đạt được ở 53,49% tuy nhiên HAMT (<130/80 mmHg) chỉ đạt ở 41,83% bệnh nhân. Tỷ lệ bệnh nhân mắc mới các biến chứng tim mạch sau 6 tháng theo dõi có tỉ lệ nhỏ 3,27%. |
URI: | http://115.74.233.203:81/tailieuso/handle/123456789/754 |
Appears in Collections: | Ngành Dược lý - Dược lâm sàng |
Files in This Item:
File | Description | Size | Format | |
---|---|---|---|---|
_file_ | 1.42 MB | Adobe PDF | View/Open | |
Your IP: 3.145.58.141 |
Items in DSpace are protected by copyright, with all rights reserved, unless otherwise indicated.